Sự tác động của biến đổi khí hậu đến các khu vực trên toàn thế giới

Sự thay đổi của khí hậu Trái đất có những ảnh hưởng khác nhau ở các khu vực khác nhau trên thế giới. Một số nơi sẽ ấm hơn nhiều so với những nơi khác, một số vùng sẽ nhận được nhiều mưa hơn, trong khi những vùng khác phải chịu hạn hán thường xuyên hơn. Những thay đổi trong khu vực về nhiệt độ và lượng mưa đang có tác động đến con người và hệ sinh thái. Các loài động vật không chịu được sự thay đổi của khí hậu và không có khả năng di chuyển đến các khu vực mới sẽ bị đe dọa tuyệt chủng. 

Nhiệt độ ấm lên

Trong khi nhiệt độ toàn cầu trung bình của Trái đất đang tăng lên, thì lượng ấm lên không đồng đều ở tất cả các khu vực trên thế giới.

  • Khi  khí hậu ấm lên,  đại dương được cho là sẽ ấm lên chậm hơn so với đất liền bởi vì nó cần nhiều nhiệt để làm ấm nước hơn so với không khí và đất liền. Không khí ngay trên mặt nước đại dương được cho là sẽ ấm lên chậm hơn so với trên đất liền.
  • Nhìn chung, vùng giữa các lục địa được dự báo sẽ ấm hơn các vùng ven biển. Địa hình khu vực như các dãy núi cũng sẽ ảnh hưởng đến điều này.
  • Ở các vĩ độ h igh, đặc biệt là trong và gần Bắc Cực, nhiệt độ đang ấm lên nhanh hơn so với những nơi gần xích đạo hơn. Bắc Cực đang nóng lên nhanh hơn khoảng hai lần so với mức trung bình toàn cầu.
Thay đổi nhiệt độ không khí trung bình hàng năm (° C) trên bề mặt Trái đất cho hai kịch bản khí hậu trong tương lai, kịch bản B1 (trên) và A2 (dưới), trong hai khoảng thời gian trong tương lai, 2046 đến 2065 (trái) và 2080 đến 2099 ( bên phải). Lượng thay đổi nhiệt độ tương đối với mức trung bình của nhiệt độ từ năm 1980 đến 1999. Nguồn ảnh: Báo cáo Biến đổi khí hậu năm 2007 của IPCC AR4

Thay đổi lượng mưa trong khu vực

Lượng mưa trung bình toàn cầu dự kiến ​​sẽ tăng khoảng 3% đến 5% vào năm 2100 theo Báo cáo Đánh giá lần thứ tư của IPCC. Tuy nhiên, sự gia tăng này không được dự kiến ​​sẽ được phân bổ đồng đều trên toàn cầu hoặc trong suốt các mùa trong một năm nhất định.

Phần lớn lượng mưa gia tăng dự kiến ​​sẽ xảy ra ở các vĩ độ cao. Lượng tuyết rơi gia tăng gần cả hai cực có thể bù đắp phần nào sự tan chảy của các sông băng và tảng băng ở những khu vực này bằng cách thêm băng mới vào các đỉnh của các địa điểm này. Một số nơi ở Nam Cực thậm chí còn có nhiều tuyết hơn do lượng mưa tăng hơn là mất đi do tan chảy do nhiệt độ tăng.

Tuy nhiên, nhiều khu vực gần xích đạo và ở vĩ độ trung bình được dự báo sẽ thấy lượng mưa giảm. Ở châu Phi, có từ 75 đến 250 triệu người được dự đoán là dễ bị hạn hán và thiếu nước uống. Điều kiện khô hạn đã gây khó khăn cho việc trồng trọt ở châu Phi, điều này đang gây ra tình trạng khan hiếm lương thực hơn. Ở một số khu vực ở châu Á, nước ngọt sạch được dự báo sẽ trở nên khan hiếm hơn và bệnh tật do nước không sạch được dự báo sẽ gia tăng.

Một số lượng mưa gia tăng dự kiến ​​sẽ đến dưới dạng những trận mưa lớn thường xuyên hơn. Một số vùng có thể nhận được sự gia tăng thực sự về lượng mưa, nhưng sự gia tăng này có thể biểu hiện dưới dạng những trận mưa lớn hơn kèm theo những đợt khô hạn kéo dài hơn giữa các vùng đồng bằng này. Sự thay đổi về lượng mưa này có khả năng gây ra lũ lụt lớn hơn, đặc biệt là khi kết hợp với những thay đổi về sử dụng đất như phá rừng.

Nhiều khu vực, đặc biệt là ở các vùng vĩ độ thấp và trung bình, dự kiến ​​sẽ phải hứng chịu những đợt hạn hán thường xuyên hơn và nghiêm trọng hơn. Điều kiện khô, nhiệt độ ấm hơn tạo ra “mùa cháy” dài hơn, và những thay đổi đối với hệ sinh thái được cho là sẽ tạo ra nhiều vụ cháy rừng hơn và lớn hơn ở một số khu vực.

Một số khu vực hiện đang khô hạn có thể vui mừng khi thấy lượng mưa tăng lên, cũng như điều kiện khô hơn có thể có lợi cho một số nơi hiện đang rất ẩm ướt. Tuy nhiên, lượng mưa lớn gây ra lũ lụt cũng như hạn hán kéo dài hoặc thường xuyên hơn có khả năng phá vỡ các hệ sinh thái và nông nghiệp ở các vùng bị ảnh hưởng.

Vùng trũng ven biển và vùng biển trồi

Không có gì ngạc nhiên khi mực nước biển dâng cao được cho là sẽ có những tác động tiêu cực đến các vùng ven biển và hải đảo trên toàn thế giới. Tuy nhiên, các tác động sẽ khác nhau tùy thuộc vào địa hình của đất và tính dễ bị ngập lụt của đất.

Một số vùng đất trũng ven biển sẽ bị ngập lụt thường xuyên hơn hoặc thậm chí là ngập lụt vĩnh viễn. Các khu vực rộng lớn ở các quốc gia Bangladesh và Hà Lan, cùng với bang Florida của Mỹ và thành phố New Orleans chỉ cao hơn mực nước biển một chút, và do đó có nguy cơ rất cao mực nước biển thậm chí tăng nhẹ. Một số quốc đảo nhỏ ở Thái Bình Dương có độ cao thấp đến mức có nguy cơ bị xóa sổ hoàn toàn trên bản đồ khi nước dâng.

Mực nước biển cao hơn sẽ đẩy nhanh quá trình xói mòn các bãi biển và các dạng địa hình khác dọc theo bờ biển. Nước mặn sẽ thấm sâu hơn vào đất liền ở các cửa sông và đầm lầy nước lợ, làm thay đổi các hệ sinh thái (nhiều hệ sinh thái trong số đó đóng vai trò là vườn ươm cho cá biển và các sinh vật sống dưới nước khác).

Các khu vực dễ xảy ra bão

Các khu vực trên thế giới vốn đã có nguy cơ xảy ra xoáy thuận nhiệt đới (còn được gọi là bão và bão) có thể chịu nhiều tác động hơn từ chúng trong tương lai . Những cơn bão này lấy năng lượng từ vùng nước biển ấm, vì vậy gió của chúng trở nên dữ dội hơn khi nhiệt độ bề mặt biển ấm lên. Bão cũng có thể mang theo nhiều hơi nước hơn trong khí hậu ấm hơn, gây ra nhiều mưa hơn và có thể gây ra lũ lụt khi chúng đổ bộ vào đất liền. Ngoài ra, lũ lụt do triều cường trong các cơn bão sẽ cuốn trôi sâu hơn vào đất liền khi mực nước biển dâng cao do biến đổi khí hậu.

Bão xảy ra ở sáu khu vực chính trên toàn thế giới: Bắc Đại Tây Dương, Đông Bắc Thái Bình Dương, Tây Bắc Thái Bình Dương, Tây Nam Thái Bình Dương và Bắc và Nam Ấn Độ Dương. Mỗi khu vực này có thể bị ảnh hưởng khác nhau bởi những thay đổi đối với các hình thái bão do hiện tượng nóng lên toàn cầu. Các mùa bão có thể bắt đầu sớm hơn và kết thúc muộn hơn, tạo thêm thời gian cho các cơn bão xuất hiện. Bão có thể di chuyển vào các vĩ độ cao hơn khi nước biển ấm lên. Bão có thể hình thành ở những nơi mà trước đây chúng chưa từng có.

Vùng núi cao

Hầu hết tất cả các sông băng trên núi hoặc núi cao trên thế giới đang rút đi, một xu hướng có thể sẽ tiếp tục trong những năm tới. Khi các sông băng co lại và ở một số nơi biến mất, các cộng đồng người và hệ sinh thái dựa vào nước băng làm nguồn cung cấp nước ngọt. Ở một số vùng, người dân gần như phụ thuộc hoàn toàn vào các sông băng để cung cấp nước cho các thị trấn, thành phố và cho nông nghiệp. Phần lớn miền bắc Ấn Độ lấy nước từ các sông băng ở Himalaya, trong khi phần lớn Chile dựa vào các sông băng trên dãy Andes để lấy nước. Ít nước hơn có thể dẫn đến những thay đổi trong hệ sinh thái và tỷ lệ mắc các bệnh truyền qua nước cao hơn. Ở các khu vực miền núi khác, tuyết thường tích tụ vào mùa đông và tan chảy vào mùa xuân và mùa hè, chảy xuống các con sông. Nhưng nhiệt độ ấm hơn làm tăng nguy cơ lũ lụt sông do tuyết tan nhanh hơn. Những thay đổi về tuyết và băng giá ở các vùng núi đe dọa sự tuyệt chủng của các loài sống trong môi trường độ cao độc đáo.

Các khu vực bị ảnh hưởng bởi El Niño và các mô hình khác trong khí quyển

Các chu kỳ như các sự kiện El Niño và La Niña và gió mùa theo mùa ở Ấn Độ có thể thay đổi khi khí hậu ấm lên. Các nhà khoa học vẫn đang cố gắng cải thiện các mô hình của những sự kiện này, vì vậy những dự đoán về việc chúng có thể thay đổi như thế nào trong tương lai có phần mang tính phỏng đoán. Sự gián đoạn của các mô hình bình thường, đặc biệt là gió mùa, có thể ảnh hưởng đến hàng triệu người ở các khu vực như Ấn Độ và Bangladesh. El Niño và La Niña ảnh hưởng đến Thái Bình Dương và các khu vực xung quanh, nhưng các nhà khoa học đang phát hiện ra rằng chúng cũng có thể có ảnh hưởng đến các khu vực khác trên thế giới.

Vùng cực

Bắc Cực và các phần của Nam Cực đang ấm lên nhanh hơn nhiều so với mức trung bình toàn cầu, một xu hướng được cho là sẽ tiếp tục. Mức độ băng biển ở Bắc Băng Dương đang giảm nhanh chóng. Một số mô hình dự báo sự mất hoàn toàn của băng biển vào mùa hè ở Bắc Cực vào giữa thế kỷ 21. Các sông băng và các tảng băng ở Nam Cực và Greenland cũng đang tan chảy.

Permafrost (mặt đất đóng băng) thường cung cấp nền tảng vững chắc cho các tòa nhà và đường xá ở Bắc Cực. Nó đủ rắn để các loài động vật như tuần lộc di cư qua. Nhưng lớp băng vĩnh cửu tan băng tạo ra mặt đất nhão, làm gián đoạn các hoạt động của động vật hoang dã và con người. Ngoài ra, sự tan băng của lớp băng vĩnh cửu giải phóng khí mê-tan , một loại khí nhà kính mạnh.

Nguồn tin: https://scied.ucar.edu/

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.

Chat